Trong những năm 1960, Jacques Monod, Francois Jacob và cộng sự đã nghiên cứu sự biểu hiện của các
Trong những năm 1960, Jacques Monod, Francois Jacob và cộng sự đã nghiên cứu sự biểu hiện của các gene liên quan đến chuyển hoá lactose ở vi khuẩn E. coli. Lactose là một trong những nguồn năng lượng của vi khuẩn. Thí nghiệm nuôi cấy vi khuẩn E. coli trong môi trường không có lactose cho thấy nồng độ permease (protein vận chuyển ở màng), β-galactosidase (enzyme phân giải lactose) và transacetylase trong tế bào rất thấp. Tuy nhiên, nếu bổ sung lactose vào môi trường nuôi cấy vi khuẩn, nồng độ 3 loại enzyme chuyển hóa này tăng lên 1.000 lần. Giả thuyết đặt ra là, một tín hiệu từ môi trường gây nên biểu hiện đồng thời một cụm nhiều gene mã hoá các enzyme tham gia chuyển hoá lactose. Các gene này (bao gồm 3 gene LacZ, LacY, LacZ) được phiên mã thành một mRNA (mRNA polycistronic) và dịch mã mRNA này tạo ra nhiều chuỗi polypeptide. Từ các thí nghiệm với nhiều chủng E. coli khác nhau, cơ chế điều hoà phiên mã của operon lac ở vi khuẩn E. coli đã được làm sáng tỏ. Nhờ thuyết operon này, Jacob và Monod đã giành được giải Nobel về Sinh lí học và Y học (1965).
Trả lời cho các câu 707984, 707985, 707986 dưới đây:
Tại sao khi tăng nồng độ lactose trong môi trường nuôi cấy vi khuẩn E.coli, nồng độ các protein và enzyme phân giải đường này cũng tăng và ngược lại?
Đáp án đúng là: A
Vận dụng kiến thức đã học về thí nghiệm trên operon Lac của E. coli.
Lactose chính là tín hiệu từ môi trường gây nên biểu hiện đồng loạt của một cụm nhiều gene mã hóa các protein và enzyme phân giải đường này.
Tại sao hai nhà khoa học Jacob và Monod có thể kết luận ba gene LacZ, lacY và LacA cùng nằm trên một phân tử DNA?
Đáp án đúng là: C
Vận dụng kiến thức đã học về thí nghiệm trên operon Lac của E. coli.
Dựa trên sự gia tăng đồng thời của các loại enzyme sau dịch mã, hai nhà khoa học nhận thấy các gene LacZ, LacY và LacA được phân bố nằm liền nhau thành cụm trên phân tử DNA (thuộc cùng một đơn vị phiên mã), được điều khiển bởi một vùng promoter và một vùng operator. Cấu trúc này được gọi là operon Lactose (Lac).
Khi bổ sung lactose vào môi trường nuôi cấy vi khuẩn, nồng độ 3 loại enzyme chuyển hóa này tăng lên 1.000 lần. Giả thuyết đặt ra ở đây là?
Đáp án đúng là: B
Vận dụng kiến thức đã học về thí nghiệm trên operon Lac của E. coli.
Nếu bổ sung lactose vào môi trường nuôi cấy vi khuẩn, nồng độ 3 loại enzyme chuyển hóa này tăng lên 1.000 lần. Giả thuyết đặt ra là, một tín hiệu từ môi trường gây nên biểu hiện đồng thời một cụm nhiều gene mã hoá các enzyme tham gia chuyển hoá lactose.
Hỗ trợ - Hướng dẫn
-
024.7300.7989
-
1800.6947
(Thời gian hỗ trợ từ 7h đến 22h)
Email: lienhe@tuyensinh247.com