Bàn về thơ, Giáo sư Hà Minh Đức cho rằng: Thơ gắn với chiều sâu tâm hồn, với thế giới
Bàn về thơ, Giáo sư Hà Minh Đức cho rằng: Thơ gắn với chiều sâu tâm hồn, với thế giới nội tâm sâu kín của con người.
(Lý luận văn học, Hà Minh Đức (chủ biên), NXB Giáo dục Việt Nam, 2008, tr.208)
Nhận định trên gợi cho em những suy nghĩ gì?
Hãy phân tích thế giới nội tâm sâu kín của nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích sau:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
(...)
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Âm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Kiều ở lầu Ngưng Bích – trích Truyện Kiều, Ngữ văn 9, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2021, tr.93-94)
Quảng cáo
Phân tích, tổng hợp.
1. Mở bài
- Giới thiệu nhận định: Thơ gắn với chiều sâu tâm hồn, với thế giới nội tâm sâu kín của con người.
- Giới thiệu nội dung bài thơ.
2. Thân bài
- Nguồn gốc của thơ ca bắt nguồn từ cảm xúc, tâm hồn con người. Thật vậy, thơ là tiếng lòng, thể hiện tâm tư tình cảm của con người, là phương thức để thi nhân bộc lộ thế giới nội tâm, còn người đọc thì cảm nhận và tìm thấy mình trong đó. Bước vào thế giới của thơ ca là đắm chìm trong những câu chữ, những dòng xúc cảm bồng bềnh chứa chan. Bởi thế, người ta yêu cái đẹp và cũng yêu những vần thơ hay.
- Thơ trước hết giúp con người giãi bày xúc cảm của mình nhưng nếu xúc cảm đó bị phong kín trên trang giấy thì một điều chắc chắn là sức sống của những vần thơ ấy sẽ không lâu bền. Trong đời sống, con người không chỉ sống và tự chiêm nghiệm về những điều diễn ra trong lòng. Làm thơ không chỉ để tự thoả mãn nhu cầu giãi bày tình cảm của mình mà còn để chia sẻ, là để tìm sự đồng vọng của những tấm lòng đồng cảm.
- Tình cảm chi phối cái nhìn nghệ thuật của nhà thơ, họ nhìn sự vật qua lăng kính cảm xúc của riêng mình. Cùng một đề tài nhưng mỗi nhà thơ lại có cảm nhận khác nhau, tạo nên những chất thơ khác nhau. Tình cảm trong thơ phong phú, với nhiều cung bậc cảm xúc, mang tới sức sống cho những vần thơ. Thơ xuất phát từ cái nhìn cô đọng sâu lắng, là kết tinh chuỗi rung động của thi nhân về cuộc đời và là bản hùng ca vượt qua không gian, thời gian đi vào lòng độc giả.
- Thế giới nội tâm sâu kín của Thúy Kiều:
+ Khái quát về sáu câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích: bức tranh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích qua cái nhìn đầy tâm trạng của Thúy Kiều. Cảnh lầu Ngưng Bích:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Không gian: rộng lớn với “non xa”, “trăng gần” ⇒ sự bát ngát của không gian càng làm cho con người trở nên cô đơn, lẻ loi.
Từ “xa trông”: biểu lộ rất rõ tâm trạng thẫn thờ, đón đợi.
⇒ Không gian, vũ trụ bao la.
Từ “khóa xuân”: Kiều ý thức được mình không còn trẻ tuổi, đoạn tuyệt với tuổi trẻ khi đã rơi vào chốn lầu xa.
Tâm trạng của Thúy Kiều trước không gian bát ngát, mênh mông.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Từ láy “bẽ bàng”: sự hổ thẹn, sự tự vấn, nỗi chán nản hòa với buồn tủi đang tràn ngập trong tâm trạng Kiều.
+ Tâm trạng Thúy Kiều 8 câu thơ cuối:
Điệp từ “buồn trông” khởi đầu cho 4 cặp lục bát đã tái hiện nỗi buồn triền miên bao trùm tâm hồn nhân vật, thấm sâu vào cảnh vật. Đó là nỗi buồn cho thân phận lênh đênh, nổi chìm giữa dòng đời ủa Thúy Kiều:
Tạo dựng sự tương phản: Không gian cửa biển lúc triều dâng >< Cánh buồm thấp thoáng, nhạt nhòa; cánh hoa tàn lụi man mác trôi trên dòng nước.-> Tô đậm cái nhỏ bé, bơ vơ của cánh buồm, bông hoa.
Hình ảnh ẩn dụ: “thuyền ai”, “hoa” -> ẩn dụ cho thân phận của Thúy Kiều đang trôi dạt giữa dòng đời. Câu hỏi “về đâu” -> sự lạc lõng, mất phương hướng, không biết sẽ đi đâu về đâu của nàng. Thời gian “chiều hôm” lại càng làm cho nỗi buồn thân phận thêm sâu sắc. Là cảm giác cô đơn, lẻ loi khi đối diện với không gian mặt đất quanh lầu Ngưng Bích. Hình ảnh: “nội cỏ”, “chân mây”, “mặt đất” -> cái vô cùng, vô tận của đất trời. Từ láy “rầu rầu”: nhân hóa nội cỏ, vẽ lên một vùng cỏ cây vẻ ủ rũ, héo tàn -> gợi sự tàn úa, u buồn của lòng người. Từ láy “xanh xanh”: gợi sắc xanh nhạt nhòa của nội cỏ, mặt đất chân mây; sắc xanh như che phủ, chia cắt tất cả.=> Từ ngữ, hình ảnh cho thấy dẫu có kiếm tìm nhưng dường như trong vũ trụ bao la này Thúy Kiều không thể tìm được một dấu hiệu thân quen nào, một hơi ấm nào.
=> Đối diện với một không gian như vậy Thúy Kiều càng thấm thía hơn bao giờ hết sự nhỏ nhoi, đơn độc của mình.
-Nỗi trơ trọi, hãi hùng:
Thiên nhiên dữ dội và đầy biến động: gió giận dữ cuốn mặt duềnh, sóng ầm ầm vỗ ào ạt khi thủy triều lên. Thậm chí, Kiều cảm giác những đợt sóng dữ dội kia đang bủa vây, kêu réo ngay bên mình. Thiên nhiên là ẩn dụ cho dự cảm về những biến cố kinh hoàng sắp sửa ập xuống cuộc đời nàng. Những con sóng của số phận đang bủa vây, đe dọa người con gái lẻ loi, đơn độc nơi đất khách này.-> Linh cảm trước tương lai khiến Thúy Kiều càng lo sợ, hãi hùng.
= > 8 câu cuối cảnh được miêu tả theo trình tự: xa -> gần, màu sắc: nhạt -> đậm, âm thanh: tĩnh -> động. Gợi:
Nỗi buồn đau, lo âu, kinh sợ chồng chất trong lòng Thúy Kiều.
Sự mong manh, lẻ loi, trôi dạt, bế tắc trong thân phận nàng.
Sự tuyệt vọng, yếu đuối nhất.
- Thơ giãi bày hộ con người những điều ẩn khuất mà tác giả đã cảm nhận, nó đi sâu vào con người bằng những hy vọng và ước mơ, nhưng cũng có khi lại là sự thất vọng, đau thương của kiếp sống con người. Sẽ "chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép", sẽ chẳng có thơ khi người làm thơ không tìm được sợi dây giao nối với cuộc đời để tâm hồn được ươm trồng, nảy nở.
3. Kết bài. Tổng kết
Hỗ trợ - Hướng dẫn
-
024.7300.7989
-
1800.6947
(Thời gian hỗ trợ từ 7h đến 22h)
Email: lienhe@tuyensinh247.com