Tel: 024.7300.7989 - Phone: 1800.6947 (Thời gian hỗ trợ từ 7h đến 22h)

Thi thử toàn quốc cuối HK1 lớp 10, 11, 12 tất cả các môn - Trạm số 1 - Ngày 20-21/12/2025 Xem chi tiết
Giỏ hàng của tôi

Trình bày cảm nhận của anh (chị) về hai khổ thơ sau: Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp Con

Câu hỏi số 451867:
Vận dụng cao

Trình bày cảm nhận của anh (chị) về hai khổ thơ sau:

Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Lơ thơ cồn nhỏ giớ đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài tròi rộng bến cô liêu.

(Trích Tràng Giang, Huy Cận, SGK Ngữ Văn 11 tập 2, NXB GD)

Quảng cáo

Câu hỏi:451867
Phương pháp giải

- Phân tích (Phân tích đề để xác định thể loại, yêu cầu, phạm vi dẫn chứng).

- Sử dụng các thao tác lập luận (phân tích, tổng hợp, bàn luận,…) để tạo lập một văn bản nghị luận văn học.

Giải chi tiết

a. Mở bài:

Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm

+ Huy Cận là một trong những nhà thơ mới nổi tiếng với những tác phẩm mang phong cách rất riêng.

+ Bài thơ Tràng giang (1939) bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha

- Giới thiệu 2 khổ thơ đầu: Hai khổ thơ đầu bài đã gợi ra cả không gian rợn ngợp, nhưng tâm trạng của con người lại mang cảm giác sầu buồn, cô đơn, nỗi buồn như trải dài vô tận.

b.Thân bài: Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên và con người thôn Vĩ

* Khổ 1: Bức tranh thiên nhiên mênh mông bất tận đậm chất cổ thi.

- Nhà thơ sử dụng một loạt các thi liệu trong thơ Đường như “thuyền, nước, sóng, …”. Điều đó tạo nên một bức tranh đẹp như một bức thủy mặc nhưng buồn đến tê tái.

+ “Sóng gợn” chỉ nhẹ thôi nhưng cứ “điệp điệp” kéo dài không dứt, đó chính là những cơn sóng lòng cứ dâng lên khiến cho tác giả buồn bã không nguôi.

+ Huy Cận đã sử dụng 2 từ láy liên tiếp nhau trong một câu thơ “tràng giang”, “điệp điệp”. Cách dùng từ thật mới lạ, độc đáo tuy không mãnh liệt nhưng nó cứ liên tục, không ngừng.

+ Từ xưa đến nay  hình ảnh chiếc thuyền khiến chúng ta liên tưởng tới hình ảnh của con người. Bởi lẽ, con người chính là nhân tố có thể định hướng khiến con thuyền di chuyển một cách xác định và có phương hương hướng. Thế nhưng ở đây, dường như con thuyền đang rơi vào trạng thái vô định xuôi theo dòng nước. Điệp từ “Song song” cho thấy trạng thái hờ hững buông xuôi.

=> Từ đó, ta có thể phần nào hình dung tâm trạng của tác giả không chỉ mang một nỗi buồn nhân thế mà nỗi buồn ấy còn làm thi nhân bỗng chốc trở nên vô định chỉ biết buông xuôi theo dòng đời.

- Ở câu thơ thứ 2, hình ảnh “thuyền”, “nước” còn sóng đôi thì đến câu 3 thì ta thấy hai sự vật này đã chia ly tan tác “thuyền về nước lại sầu trăm ngả”.

+ Nghệ thuật đối giữa “Thuyền về” và “nước lại” nhằm nhấn mạnh sự tách rời, xa cách, thể hiện sự nuối tiếc trong lòng tác giả. Nếu nỗi buồn ở câu 1 còn mơ hồ chưa định hình rõ ràng thì đến đây nó đã trở thành nỗi sầu lan tỏa khắp không gian.

+ “Thuyền” và “nước” là hai hình ảnh không thể tách rời nhau vậy dòng nước hay nói cách khác là dòng đời lại nỡ chia rẽ chúng ra. -> Nỗi u hoài, chia ly, chia xa.

+ Hình ảnh ẩn dụ “củi một cành khô” từ thượng nguồn trôi dạt trên dòng sông, đang phải chọn lựa sẽ xuôi theo dòng nước nào khiến tác giả liên tưởng đến cuộc đời mình. Ông cũng như bao người dân mất nước mang thân phận bọt bèo giữa cuộc đời rộng lớn.

+ Hình ảnh cành củi khô đi kèm với từ “lạc” còn tượng trưng cho kiếp người nhỏ bé đang băn khoăn, ngơ ngác, lạc lõng trước nhiều ngã rẽ của cuộc đời.

=>  Câu thơ nhiều tầng ý nghĩa, khiến cho ý thơ sâu sắc. Bằng bút pháp nghệ thuật đảo ngữ đẩy từ “củi” lên đầu câu, tác giả nhấn mạnh thân phận nhỏ bé, bọt bèo của kiếp người trong cuộc sống.

=> Đến đây, ta nhận ra nỗi buồn của Huy Cận đó là nỗi buồn của một kiếp người khi cuộc đời có nhiều thay đổi, bất ngờ không báo trước mà con người thì lại nhỏ nhoi, cô độc và lẻ loi. Khổ thơ đầu gợi một cảm giác bâng khuâng, lo lắng , lạc lõng, chơi vơi của tác giả giữa dòng đời vô định, không biết sẽ đi đâu về đâu.

* Khổ 2: Khung cảnh gợi thời gian và không gian mang cảm giác buồn man mác.

- Từ dòng sông, sóng gợn, con thuyền xuôi mái và cành củi khô bập bềnh trôi dạt trên sông ở khổ một, Huy Cận nói đến cảnh tràng giang một buổi chiều mênh mông, vắng vẻ.

+ Giọng thơ nhè nhẹ man mác buồn. Không gian nghệ thuật được mở rộng về đôi bờ và bầu trời.

+ Những cồn cát thưa thớt nhấp nhô “lơ thơ” như nối tiếp mãi dài ra. Gió chiều nhè nhẹ thổi “đìu hiu” gợi buồn khôn xiết. Hai chữ “đìu hiu” gợi nhớ trong lòng người đọc một vần thơ cổ: “Non Kì quạnh quẽ trăng treo - Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò (Chinh phụ ngâm)”.

+ Làng xóm đôi bờ sông, trong buổi chiều tàn cũng rất vắng lặng. Một chút âm thanh nhỏ bé lao xao trong khoảng khắc tan chợ, vãn chợ ở đâu đây, từ một làng xa vẳng đến.

+ Bút pháp lấy động để tả tĩnh, khiến câu thơ nổi bật lên sự ngạc nhiên, chút bâng khuâng của người lữ khách về cái vắng vẻ, cái hoang vắng của đôi bờ tràng giang.

+ Câu thơ nhấn mạnh hơn sự cô đơn của tác giả khi bản thân ông đang mong đợi một chút sự xuất hiện của bóng dáng con người thì buồn thay sự xuất hiện ấy lại là một khung cảnh của khu chợ đã vãn, đã tàn và người đã về hết.

+ Trời đã về chiều, nắng từ trên cao chiếu rọi xuống làm hiện ra những khoảng sâu thẳm trên bầu trời từ đây vẻ đẹp của bầu trời quê hương ta đã trở thanh vẻ đẹp của thi ca dân tộc. Tuy nhiên, vẻ đẹp ấn lại ẩn chứa một nỗi buồn sâu thắm – nỗi buồn của sựu chia ly.

+ Thi sĩ Huy Cận lại nhận diện bầu trời không phải là cao mà là sâu: “Nắng xuống / trời lên sâu chót vót”. Bầu trời và lòng sông “sóng gợn” là không gian hai chiều, rộng, cao, sâu. Trời cao thăm thẳm, rộng mênh mông in xuống, soi xuống lòng sông. Người ta thường nói “cao chót vót” và “sâu thăm thẳm” nhưng ở đây Huy Cận lại cảm nhận là “sâu chót vót” vừa để làm nổi bật hai vế tiểu đối: “nắng xuống” - “trời lên”, vừa gây ấn tượng về nỗi buồn như vô tận trong lòng người vừa ẩn chứa sự chia ly cách trở.

+ Khách li hương càng cảm thấy nhỏ bé, lẻ loi và cô đơn trước không gian vô hạn của vũ trụ. Dòng sông như dài thêm ra, bầu trời như rộng thêm ra, bến đò (hay bến lòng?) như cô liêu hơn, xa vắng quạnh hiu hơn.

+ Lời đề từ nhà thơ đã viết: “Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài”, cảm hứng ấy đã được láy lại ở thơ số 8, mở ra một trường liên tưởng dầy ám ảnh về vũ trụ thì vô hạn vô cùng, còn kiếp người thì nhỏ bé, hữu hạn: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.

c. Kết bài: Khái quát lại nội dung, nghệ thuật của đoạn trích.

Group 2K9 ôn Thi ĐGNL & ĐGTD Miễn Phí

>> 2K9 Học trực tuyến - Định hướng luyện thi TN THPT, ĐGNL, ĐGTD ngay từ lớp 11 (Xem ngay) cùng thầy cô giáo giỏi trên Tuyensinh247.com. Bứt phá điểm 9,10 chỉ sau 3 tháng, tiếp cận sớm các kì thi.

Hỗ trợ - Hướng dẫn

  • 024.7300.7989
  • 1800.6947 free

(Thời gian hỗ trợ từ 7h đến 22h)
Email: lienhe@tuyensinh247.com