Tel: 024.7300.7989 - Phone: 1800.6947 (Thời gian hỗ trợ từ 7h đến 22h)

Thi thử toàn quốc cuối HK1 lớp 10, 11, 12 tất cả các môn - Trạm số 1 - Ngày 20-21/12/2025 Xem chi tiết
Giỏ hàng của tôi

Đọc vở kịch sau và thực hiện hai yêu cầu phía dưới: HỒN TRƯƠNG BA VÀ

Đọc vở kịch sau và thực hiện hai yêu cầu phía dưới:

HỒN TRƯƠNG BA VÀ VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT

(Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Lưu Quang Vũ)

* Tóm tắt vở kịch: Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch của nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, được viết vào năm 1981-1984, dựa theo truyện dân gian “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, nội dung có ý nghĩa xã hội vô cùng sâu sắc.

Trương Ba là một người làm vườn tốt bụng, nhân hậu, rất cao cờ và thường đấu cờ với Đế Thích. Danh tiếng của ông vang đến tận trời xanh. Tuy nhiên, do sự làm ăn tắc trách mà Nam Tào gạch bừa tên Trương Ba, khiến ông phải chết oan. Theo gợi ý của Đế Thích, Nam Tào cho hồn Trương Ba nhập vào thể xác hàng thịt ngoài ba mươi tuổi mới mất ở làng bên. Trương Ba sống lại và nhập vào xác hàng thịt vừa mới chết. Trú nhờ linh hồn trong thể xác hàng thịt, Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái: lý trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, gia đình Trương Ba cảm thấy xa lạ vì không phải da thịt của người thân mình..., bản thân

Trương Ba thì đau khổ vì phải sống trái tự nhiên, giả tạo. Đặc biệt, Trương Ba nhiễm phải nhiều thói xấu và những nhu cầu vốn không phải của chính bản thân anh vì thân xác của lão hàng thịt. Trước nguy cơ tha hóa về nhân cách và sự phiền toái do mượn thân xác của kẻ khác, Trương Ba quyết định trả lại xác cho hàng thịt và chấp nhận cái chết theo đúng quy luật sinh - lão - bệnh - tử.

Ở trong kịch bản, Lưu Quang Vũ đã tách rõ từng nghịch cảnh

Đoạn trích sau là cảnh tại nhà hàng thịt (sau khi được sống lại trong xác anh hàng thịt)

(Hồn Trương Ba và vợ người hàng thịt. Trời đã khuya)

HỒN TRƯƠNG BA: (Tay áo xắn cao, mặt buồn rầu, ném mấy con dao bầu đầm đìa máu vào thùng, nói với vợ người hàng thịt) Con lợn tôi đã xẻ xong, thủ chân giò để trong thúng, thịt xếp trên phản đậy mấy tàu lá chuối, tim gan bầu dục trong cái rổ treo trên quang, chị để ý kẻo mèo chó nó tha..

VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT: (Mỉm cười) Được rồi, ông khỏi lo... Mà bữa nay ông chọc tiết pha thịt cũng thạo dần rồi đấy!

HỒN TRƯƠNG BA: (Lúng túng) Cũng ...cũng tạm!

VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT: Em đã nói với ông rồi: Có khó gì đâu, ông nhỉ? Sức vóc như ông (Cầm tay Trương Ba). Hai bàn tay này vốn nhanh nhẹn tháo vát lắm!

HỒN TRƯƠNG BA: (Bối rối rụt tay lại) Công việc xong, giờ đã khuya, tôi phải về...

VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT: Về! Hôm nào cũng vội vã thế? Ngồi xuống đây với em một lát đã, ông... Bát tiết canh em đánh cho ông, để trên chống, ông đã xơi chưa?

HỒN TRƯƠNG BA: Rồi!

VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT: Cả cút rượu nữa, ông đã uống chứ?

HỒN TRƯƠNG BA: Đã!

VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT: Với đĩa hành sống, em biết ông thích xơi hành sống

HỒN TRƯƠNG BA: Vâng, cám ơn chị.

VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT: Cảm ơn khách sáo thế? Mà sao ông cứ gọi em là chị

HỒN TRƯƠNG BA: (Lúng túng) Thôi tôi xin phép...phải về...khuya rồi.

VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT: Ngoài kia đang mưa rét, sương gió mịt mờ khắp trời...(Cầm chai rượu dưới gầm để lên bàn). Ông uống nữa đi, thứ rượu tăm say nhưng dịu...em phải cất công đi xa lắm mới mua được (Rốt ra chén). Ông uống với em một chén, em cũng uống (Rót mình). Nào, ông!

(Hồn Trương Ba ngần ngừ nhấp rồi uống cạn)

VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT: (Uống) Ấm nóng cả người.

HỒN TRƯƠNG BA: (Vội vã đứng dậy) Tôi phải về.

VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT: (Cũng đứng dậy) Ông (Buồn rầu). Ông lại về bên ấy...Còn em thì còn lại một mình, trong gian nhà trống trải này...em sợ...

HỒN TRƯƠNG BA: (Ái ngại) Chị sợ gì?

VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT: Em sợ...một mình...Ông hãy ở lại lát nữa...một lát nữa thôi...

HỒN TRƯƠNG BA: Khuya quá rồi, không tiện, chị Hợi ạ.

VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT: Nhưng không tiện cái nỗi gì kia chứ? Ông không có quyền nán lại một chút hay sao? Chẳng lẽ ông cứ mãi coi mình như đứa ở hết giờ làm công lại về đây là nhà của ông cơ mà! Và em, em là ... Sao ông cứ khăng khăng lạnh nhạt với em, bỏ mặc em vò võ một thân một mình?

HỒN TRƯƠNG BA: Hiểu tình cảnh chị neo đơn vất vả, tôi đã không nề hà gì công việc hàng họ, thịt thà...

VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT: Em không cần thịt thà.. Trước thì em cũng cần đấy, nhưng bây giờ em không thiết nữa! Em không thể sống thế này mãi được! Em đâu đáng phải chịu sự hững hờ của ông...Em là vợ ông!

HỒN TRƯƠNG BA: (Khổ sở) Chị, chị phải biết rằng tôi không phải là chồng chị, không phải là anh Hợi. Hơn ai hết, chị biết rõ điều đó.

VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT: (Sau một hồi im lặng) Em biết, em biết chứ! Chính vì vậy mà em càng thương quý ông. Em đi lấy chồng năm mười sáu tuổi. Suốt mười năm sống bên chồng, em chưa hề biết một lời nói dịu dàng, một cử chỉ ân cần...Ngoài chuyện buôn bán lừa lọc, ông ấy chỉ biết ăn, ngủ và say rượu...Cả ban đêm, khi gần gũi vợ, ông ấy cũng say khướt. Rồi những trận đòn tàn tạ.(Vợ người hàng thịt nhắm mắt lại, trước mắt chị như hiện ra cảnh tượng cũ: Xác người hàng thịt mang hồn Trương Ba vụt trở về anh hàng thịt đang khật khưỡng ngồi uống rượu, tay gắp miệng nhai nhồm nhoàm. Rồi anh ta loạng choạng đứng dậy, hùng hổ trỏ tay vào mặt vợ. Chị vợ sợ hãi lùi dần. Anh hàng thịt vung nắm tay. Chị vợ kêu lên. Chị mở bừng mắt ra: Trước mặt chị lại là Anh hàng thịt mang hồn Trương Ba điềm tĩnh hiền hậu).

VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT: Giờ đây, ở bên em, vẫn là hình vóc ấy, khuôn mặt ấy nhưng tất cả đều đã khác... Lần đầu tiên em được biết thế nào là những lời thanh tạo hiền hậu, những cử chỉ nhã nhặn ân cần. Lần đầu tiên em thấy mình được quý trọng...

HỒN TRƯƠNG BA: Kìa, chẳng phải là chị đã khóc thương tiếc ông nhà đó sao?

VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT: Đúng! Không phải em ghét bỏ gì con người cũ của chồng em. Em đã chịu ơn ông ấy, thuộc về ông ấy, than khóc khổ sở khi ông ấy mất nhưng chỉ từ khi ông tới, hay nói đúng hơn từ khi hồn ông nhập vào thân xác chồng em, em mới biết trước kia em thiếu những gì, em mới biết lâu nay em chưa hề được sống lại thời con gái, nỗi sướng vui... Em cảm tạ Trời Phật đã cho hồn ông nhập vào hình vóc quen thuộc này! (Cầm hai bàn tay Hồn Trương Ba). Em không ao ước gì hơn nữa! Người chồng toàn vẹn của em đây! Người em đã từng mong đợi xưa kia đây! Anh đừng e ngại nữa, em là của anh.. (ôm lấy Trương Ba thắm thiết, say sưa). Đôi cánh tay này đã bao lần ghì chặt lấy em đến nỗi em phát sợ nhưng bây giờ đã khác trước, anh nhỉ? (gục mặt vào ngực hồn Trương Ba).

(Như bị một sức mạnh ghê gớm kéo đi, hồn Trương Ba cũng ôm lấy vợ người hàng thịt, vuốt ve đôi vai và cánh tay mạnh mẽ của chị ta)

VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT: (Vuốt tóc Trương Ba) Em sẽ săn sóc hầu hạ anh, tận tụy với anh mãi. Anh ơi, chúng ta hãy rời bỏ nơi này, vứt bỏ tất cả, không còn hồn Trương Ba, xác hàng thịt gì nữa, chỉ còn em với anh... Chúng ta hãy trốn đi, tới một nơi nào đó không còn ai biết quá khứ của chúng ta nữa, không còn lão Lý trưởng, không còn những thằng lái lợn, không có cả gã con trai gian xảo của anh..

Chúng ta sẽ đi ngay ngày mai, băng qua mấy cánh đồng, là sẽ tới bến Tằm, ta sẽ xuống đò xuôi ở đó...

HỒN TRƯƠNG BA: (Như sực tỉnh) Bến Tằm? (Ngơ ngác rồi bàng hoàng buông vợ người hàng thịt ra, đứng bật dậy) Bến Tằm... đêm hát đối... Mình...trời ơi, ta đang làm gì thế này? (Nhìn lại đôi tay mình, sợ hãi) Không! Không (Lùi xa vợ người hàng thịt) Cái đốm sáng mong manh nào trong ta vừa chợt loé lên? Vái linh hồn của ta, hãy trở lại với ta, Trương Ba...ta là Trương Ba.. Mình ơi! Tôi đã làm gì? (Ôm mặt) Bà nó ơi!

VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT: Kìa! Anh! (Đến bên Trương Ba nhìn vừa đắm đuối vừa năn nỉ). Anh!

HỒN TRƯƠNG BA: (Lắc đầu) Không! Đừng! Hãy tha cho tôi! Tôi van chị! (Như sợ mình không thắng nổi sự cám dỗ, lùi dần ra cửa) Không! (Chạy đi)

VỢ NGƯỜI HÀNG THỊT: (Gục xuống nức nở) Anh!

(Đèn tắt, chuyển cảnh)

(Hồn Trương Ba da hàng thịt - Tôi và chúng ta, Lưu Quang Vũ, Nxb Kim Đồng 2010)

* Chú thích: Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là một nhà soạn kịch, nhà thơ và nhà văn người Việt Nam. Các vở kịch, truyện ngắn, thơ của Lưu Quang Vũ giàu tính hiện thực và nhân văn, in đậm dấu ấn của từng giai đoạn trong cuộc sống của ông. Ông đã là tác giả của gần 50 vở kịch và hầu hết các vở kịch của ông đều được các đoàn kịch, chèo gây dựng thành công dưới sự chỉ đạo của nhiều đạo diễn nổi tiếng làm sôi động sân khấu Việt Nam thời kì đó

Trả lời cho các câu 1, 2 dưới đây:

Câu hỏi số 1:
Vận dụng

Viết bài văn ngắn phân tích xung đột trong vở kịch trên.

Câu hỏi:836490
Phương pháp giải

Vận dụng kiến thức về kịch và kỹ năng viết nghị luận về tác phẩm kịch 

Giải chi tiết

I. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Lưu Quang Vũ – nhà viết kịch lớn của sân khấu Việt Nam hiện đại, kịch giàu tính triết lí và nhân văn.

- Giới thiệu vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt

- Nêu vấn đề nghị luận: Xung đột kịch trong đoạn trích thuộc vở kịch trên.

II. Thân bài:

1. Khái quát ngắn về xung đột trong kịch và bối cảnh đoạn trích

- Khái niệm: Xung đột kịch là sự va chạm, mâu thuẫn gay gắt giữa các lực lượng, quan điểm, tính cách… tạo nên kịch tính.

- Bối cảnh:

+ Hồn Trương Ba mượn xác anh hàng thịt đã lâu → dần bị chi phối bởi nhu cầu của xác.

+ Vợ người hàng thịt ngày càng có tình cảm với “người chồng mới” – vẫn hình vóc cũ nhưng tính cách dịu dàng, hiền hậu.

+ Đoạn trích diễn ra lúc khuya, sau khi Trương Ba làm xong việc mổ lợn – không gian thuận lợi để xung đột bùng phát.

→ Tạo tiền đề cho cuộc va chạm mạnh giữa đời sống tinh thần và thể xác – hoàn cảnh bên ngoài.

2. Xung đột giữa Hồn Trương Ba và vợ người hàng thịt

a. Mong muốn trái chiều về “vai trò người chồng”

- Vợ người hàng thịt:

+ Cô đơn, khao khát hạnh phúc gia đình, cần một người chồng thực sự ở bên:

+ Nài nỉ, giữ Trương Ba ở lại: “Ông hãy ở lại lát nữa…”, “Em là vợ ông!”, “Người chồng toàn vẹn của em đây!”.

+ Thấy ở “anh hàng thịt mới” những điều mình chưa từng có:

+ Lời nói dịu dàng, cử chỉ ân cần, cảm giác được tôn trọng.

- Hồn Trương Ba:

+ Luôn tìm cách từ chối, lảng tránh: “Tôi phải về…”, “Khuya quá rồi, không tiện…”.

+ Khẳng định mình không phải chồng chị, “không phải là anh Hợi”.

→ Xung đột bên ngoài: Vợ người hàng thịt muốn ông chấp nhận vai trò chồng, còn Trương Ba không thể và không muốn sống trong sự nhầm lẫn ấy.

b. Xung đột giữa khát vọng tình cảm của vợ người hàng thịt với nỗi dằn vặt đạo đức của Trương Ba

- Vợ người hàng thịt:

+ Tâm trạng dồn nén lâu ngày → bộc lộ mãnh liệt: Kể lại quá khứ đau khổ: lấy chồng từ năm 16 tuổi, bị thô bạo, không được yêu thương; Xem sự xuất hiện của hồn Trương Ba trong thân xác chồng là “ơn Trời Phật”; Ôm chặt, van vỉ, muốn cùng Trương Ba “trốn đi tới nơi không ai biết quá khứ”.

- Hồn Trương Ba:

+ Một lúc bị cuốn theo → “ôm lấy vợ người hàng thịt”, “vuốt ve”…

+ Nhưng ngay lập tức khủng hoảng: “Trời ơi, ta đang làm gì thế này?”, “Tôi đã làm gì?”, “Bà nó ơi!”.

+ Cuối cùng hoảng sợ, lùi lại, bỏ chạy.

=> Xung đột giữa: Sự cám dỗ ngọt ngào của hạnh phúc thể xác – tình ái, với lương tâm, nhân cách, ý thức về bản thân thật của Trương Ba.

3. Xung đột nội tâm: Hồn Trương Ba với chính mình (trọng tâm)

a. Mâu thuẫn giữa linh hồn thanh cao và thân xác phàm tục

- Thân xác anh hàng thịt:

+ Khỏe mạnh, thô phàm, quen với việc chọc tiết, uống rượu, ăn hành sống, ham dục vọng…

+ Thân xác kéo Hồn Trương Ba vào những ham muốn không phải của ông.

- Hồn Trương Ba:

+ Vốn là người làm vườn hiền lành, yêu cái đẹp, yêu cuộc sống thanh sạch.

+ Cảm thấy ghê sợ khi phải sống trong thân xác không thuộc về mình.

- Trong đoạn trích, xung đột nội tâm lên cao:

+ Ông bị kéo vào vòng tay vợ người hàng thịt → thân xác hưởng ứng;

+ Nhưng linh hồn phản kháng dữ dội → tỉnh ngộ, xấu hổ, sợ hãi chính mình.

→ Thể hiện bi kịch sống nhờ, sống lệch, sống không là mình.

b. Mâu thuẫn giữa bổn phận với gia đình mình và cám dỗ “an bài” trong thân xác mới

- Hồn Trương Ba nhớ đến: Bến Tằm, đêm hát đối, “Mình ơi!” → ký ức gắn với vợ thật, gia đình thật. Gọi “Bà nó ơi!” – tiếng kêu bật lên từ phần người Trương Ba, chứ không phải anh hàng thịt.

- Nhận ra: Nếu chấp nhận sống với vợ người hàng thịt → phản bội vợ con mình, phản bội chính mình. Sống tiếp như vậy là tha hóa nhân cách.

→ Xung đột: Giữa cách sống thuận theo hoàn cảnh, bản năng, và lối sống trung thực với bản chất, với tình nghĩa, với đạo đức.

4. Ý nghĩa của xung đột trong đoạn trích và trong toàn vở kịch

- Làm nổi bật chủ đề tư tưởng:

+ Không thể sống nhờ, sống gửi, sống giả dối, sống trái tự nhiên.

+ Con người phải được sống trọn vẹn là mình – hài hòa giữa hồn và xác.

- Khắc họa chiều sâu nhân cách Trương Ba:

+ Ông đau khổ, giằng xé nhưng cuối cùng không chấp nhận sự tha hóa.

+ Đây là bước chuẩn bị cho quyết định sau cùng: trả lại xác, chấp nhận cái chết để bảo toàn nhân cách.

- Tố cáo sự áp đặt, cẩu thả, vô trách nhiệm (Nam Tào – Đế Thích): Chỉ vì “chữa cháy”, họ đã đẩy con người vào bi kịch sống trái tự nhiên.

- Gợi suy nghĩ hiện đại: Con người không thể chỉ sống bằng “vỏ ngoài” (thể xác, danh lợi…), mà phải giữ cho được “cái bên trong” – lương tri, nhân phẩm.

III. Kết bài

- Đoạn trích là một trong những đỉnh điểm xung đột của vở kịch, kết tinh bi kịch “hồn – xác” và bi kịch đạo đức của Trương Ba.

- Lưu Quang Vũ xây dựng xung đột giàu kịch tính nhưng cũng rất nhân văn, gần gũi với những trăn trở của con người hiện đại.

Câu hỏi số 2:
Vận dụng

Viết một bài văn ngắn phân tích nghệ thuật viết kịch trong đoạn trích trên.

Câu hỏi:836492
Phương pháp giải

Vận dụng kiến thức về kịch và kỹ năng viết nghị luận về kịch

Giải chi tiết

I. Mở bài:

- Giới thiệu ngắn về Lưu Quang Vũ: nhà viết kịch tiêu biểu, kịch giàu kịch tính, triết lí, hơi thở đời sống.

- Giới thiệu vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt, dựa truyện dân gian nhưng hiện đại hóa, đặt vấn đề sống là chính mình. Giới thiệu đoạn trích: cảnh Hồn Trương Ba với vợ người hàng thịt tại nhà hàng thịt, trời khuya.

- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Đoạn trích là một minh chứng rõ nét cho nghệ thuật viết kịch đặc sắc của Lưu Quang Vũ: xây dựng tình huống, xung đột, lời thoại, chỉ dẫn sân khấu, khắc hoạ nhân vật và chiều sâu tư tưởng.

II. Thân bài:

1. Nghệ thuật xây dựng tình huống kịch độc đáo, “đắt”

- Tình huống:

+ Hồn Trương Ba sống nhờ vào xác anh hàng thịt, đến làm thịt lợn rồi ở lại nhà vợ người hàng thịt lúc đêm khuya.

+ Không gian: gian nhà trống trải, khuya, mưa rét, rượu, tiết canh → dễ bộc lộ tâm trạng, dễ nảy sinh cám dỗ.

=> Đây là tình huống “cận kề ranh giới”: Giữa tình – lý, giữa phần người thanh sạch và sức kéo của thân xác phàm tục. Từ tình huống ấy, mọi xung đột nội tâm, bi kịch nhân vật được đẩy lên cao trào → chất kịch được tạo ra ngay từ “thế” của cảnh.

→ Nghệ thuật: chọn đúng “khoảnh khắc dễ nổ” để phơi bày vấn đề tư tưởng.

2. Nghệ thuật xây dựng xung đột kịch sâu sắc

- Xung đột bên ngoài (giữa hai nhân vật):

+ Vợ người hàng thịt: Muốn giữ “người chồng mới”: đòi hỏi tình cảm, khẳng định “em là vợ ông”, muốn bỏ đi cùng “anh”.

+ Hồn Trương Ba: Liên tục muốn rút lui, từ chối: “Tôi phải về”, “Tôi không phải là chồng chị”.

- Xung đột bên trong (nội tâm Hồn Trương Ba):

+ Bị thân xác và hoàn cảnh lôi kéo, đã có lúc ôm, vuốt ve vợ người hàng thịt.

+ Nhưng lương tâm vùng dậy: nhớ “Bến Tằm… đêm hát đối… Mình ơi… Bà nó ơi!”, hoảng sợ, day dứt, bỏ chạy.

- Xung đột được đẩy lên đỉnh:

+ Những lời van vỉ, níu kéo tha thiết của vợ người hàng thịt ↔ tiếng kêu tuyệt vọng, hoảng hốt của Hồn Trương Ba (“Tôi đã làm gì?”, “Hãy tha cho tôi!”).

→ Lưu Quang Vũ viết kịch qua xung đột, cho thấy tay nghề vững: xung đột không chỉ là cãi vã mà là va chạm tư tưởng – nhân cách.

3. Nghệ thuật xây dựng lời thoại kịch giàu tính đời, tính tính cách và chiều sâu tâm lí

- Lời thoại tự nhiên, đời thường, đúng “chất” nhân vật:

+ Vợ người hàng thịt: ngôn ngữ mộc mạc, thẳng thắn, có chút “tếu”, đầy cảm xúc: “Ông uống nữa đi…”, “Em là vợ ông!”, “Em không thể sống thế này mãi được!”.

+ Hồn Trương Ba: bối rối, ngập ngừng, khách sáo, đạo đức: “Thôi tôi xin phép… phải về…”, “Chị phải biết rằng tôi không phải là chồng chị…”.

- Lời thoại bộc lộ tâm lí tinh tế:

+ Từng bước chuyển: từ lúng túng → bị cuốn theo → choáng tỉnh → hoảng sợ.

+ Vợ người hàng thịt: từ nũng nịu, trách móc → tự thú đời khổ → dâng trào yêu thương, hy vọng.

- Lời thoại mang tính triết lí ngầm:

+ Qua lời của vợ người hàng thịt, phơi bày kiếp người phụ nữ nông dân bị chà đạp, thèm khát được tôn trọng.

+ Qua tiếng kêu của Hồn Trương Ba, bật lên vấn đề sống đúng là mình, giữ nhân cách.

=> Lời thoại là “xương sống” của kịch, ở đây vừa sống động sân khấu, vừa sâu sắc tư tưởng.

4. Nghệ thuật sử dụng chỉ dẫn sân khấu (lời thoại kèm động tác) rất nhuần nhị

- Chỉ dẫn trong ngoặc đơn:

+ “(Tay áo xắn cao, mặt buồn rầu…)” → cho thấy mâu thuẫn: làm việc của anh hàng thịt nhưng tâm thế không vui.

+ “(Cầm tay Trương Ba)”, “(ôm lấy Trương Ba thắm thiết, say sưa)”, “(gục mặt vào ngực hồn Trương Ba)” → tăng sức nặng của cám dỗ, cảm xúc.

+ “(Như bị một sức mạnh ghê gớm kéo đi)”, “(Như sực tỉnh)”, “(Nhìn lại đôi tay mình, sợ hãi)” → thể hiện trực quan đấu tranh nội tâm.

+ “(Gục xuống nức nở)”, “(Đèn tắt, chuyển cảnh)” → tạo dấu chấm hết đột ngột, dư âm bi kịch.

- Chỉ dẫn sân khấu giúp: Đạo diễn – diễn viên dễ hình dung cách diễn. Người đọc vẫn cảm nhận rõ được “tính sân khấu” dù chỉ đọc kịch bản.

=> Nghệ thuật viết kịch của Lưu Quang Vũ là viết bằng mắt sân khấu, không chỉ bằng chữ.

5. Nghệ thuật khắc họa nhân vật kịch qua hành động – lời nói – đối thoại

- Hồn Trương Ba được khắc họa qua:

+ Lời nói khách sáo, giữ khoảng cách.

+ Hành động lúc bị cuốn theo rồi giật mình, chạy trốn.

=> Thể hiện con người giằng xé, có lương tâm, không chấp nhận tha hóa.

- Vợ người hàng thịt:

+ Không bị tô vẽ một chiều là “ham xác thịt” hay “trần tục”.

- Qua lời kể quá khứ, cử chỉ, nỗi khóc, ta thấy:

+ Một người phụ nữ chịu nhiều tủi nhục, khao khát yêu thương, hạnh phúc.

+ Nhân vật có chiều sâu tâm lí, có lí do của tình cảm, không hề “rẻ tiền”.

→ Nghệ thuật viết kịch: không phân tuyến thiện – ác đơn giản, mà xây dựng nhân vật đa chiều, người nào cũng vừa đáng thương, vừa đáng nghĩ.

6. Nghệ thuật kết hợp yếu tố hiện đại với chất dân gian – triết lí

- Dựa cốt truyện dân gian Hồn Trương Ba, da hàng thịt, nhưng:

- Lưu Quang Vũ đặt nhân vật vào nghịch cảnh mới, góc nhìn mới: bi kịch nhân cách, câu chuyện sống đúng với mình.

- Đoạn trích mang đậm chất triết lí hiện đại: Câu hỏi: sống thế nào? sống ra sao giữa sức ép của hoàn cảnh, thân xác, danh phận?

- Nghệ thuật biến truyện dân gian mang tính ngụ ngôn thành kịch nói hiện đại giàu chiều sâu tâm lí và xã hội.

III. Kết bài

- Khẳng định: Đoạn trích là minh chứng tiêu biểu cho nghệ thuật viết kịch bậc thầy của Lưu Quang Vũ: tình huống “đắt”, xung đột sâu, đối thoại giàu kịch tính, chỉ dẫn sân khấu rõ, nhân vật có chiều sâu.

- Đánh giá: Nhờ nghệ thuật viết kịch độc đáo, Lưu Quang Vũ không chỉ kể lại chuyện “hồn – xác” mà đặt ra vấn đề nhân phẩm, lương tri, cách sống của con người hiện đại.

- Mở rộng: Giá trị của đoạn trích và vở kịch vượt khỏi thời điểm sáng tác, vẫn còn nguyên tính thời sự trong mọi thời: con người luôn phải đối diện câu hỏi: “Có dám sống thật với mình hay không?”

Quảng cáo

Group 2K9 ôn Thi ĐGNL & ĐGTD Miễn Phí

>> 2K9 Học trực tuyến - Định hướng luyện thi TN THPT, ĐGNL, ĐGTD ngay từ lớp 11 (Xem ngay) cùng thầy cô giáo giỏi trên Tuyensinh247.com. Bứt phá điểm 9,10 chỉ sau 3 tháng, tiếp cận sớm các kì thi.

Hỗ trợ - Hướng dẫn

  • 024.7300.7989
  • 1800.6947 free

(Thời gian hỗ trợ từ 7h đến 22h)
Email: lienhe@tuyensinh247.com