Đọc văn bản sau: Một lần Tết, cùng hai lần đám giỗ, cậu lại ra nhà người anh cùng cha khác
Đọc văn bản sau:
Một lần Tết, cùng hai lần đám giỗ, cậu lại ra nhà người anh cùng cha khác mẹ với mình. Lành như củ khoai, lành như đất, lành như một người kém trí, như cái tên Út Khờ. Đi lần nào cũng quên vài thứ, không quên mang dép thì cũng quên đội nón, nhưng có thứ cậu không bao giờ quên mang tới nhà anh chị cậu, là bánh. Giỗ này cậu đem bánh bột đậu, giỗ sau cậu góp cốm ngào đường, Tết thường có bánh kẹp cuốn, bánh bông lan, bột đậu. Những thứ bánh trái quê mùa, nằm vơ vất trên bàn thờ, giữa những món đồ cúng đẹp đẽ khác. Vơ vất như thân phận của cậu: con riêng của ông nội với người đàn bà khác.
[...] Con nhỏ giúp việc, lần đầu tới nhà chủ, nó khoe nó biết làm nhiều loại bánh ngon hết xảy như kẹp cuốn, tai yến, tăng ong… tất nhiên là không ngon bằng má nó làm. Nhưng bà chủ phủi đi, nhà bà không làm bánh bao giờ, muốn thì bước ra cửa, thiếu cha gì món ngon, ì ạch làm gì cực thân. Bà cũng từng nói với thằng em chồng khờ khạo của mình câu đó.
Và cậu Út hiền lắm, nói mười hiểu ba, lại nhoẻn cười bảo, “Nhưng vui lắm, chị”.
Con nhỏ giúp việc cũng từng nghe câu nói đó từ người mẹ của mình. Cực mà vui. Chỉ là không biết giải thích làm sao với người khác niềm vui sướng khi lấy từ khuôn gang nóng rực ra những cái bánh thơm lừng, ngun ngút khói. Mẻ bánh đời đầu đó, con nhỏ vẫn còn nhớ, những hạt đậu phộng rang nó ấn vào giữa cái bánh như một nhụy hoa, nhưng bánh nướng xong thì đậu rơi mất, bánh bột đậu trở thành bánh bột. Má nó nói phải học từ chuyện nhỏ xíu vậy, mới làm được cái bánh vừa đẹp vừa ngon.
Ta chỉ cần ví cái cảm giác đó với cảm giác cô nghệ sĩ múa ba lê vừa hoàn thành một cú xoay khó. Kinh điển với chỉ chừng ấy động tác, nhưng từ đời này sang đời khác, từ thế kỉ này sang thế kỉ khác, người nghệ sĩ vẫn đổ mồ hôi để cố hoàn thiện nó. Nhưng cậu hiền đến ngớ ngẩn, nên chỉ có thể nói cực mà vui, để nhận được từ con nhỏ giúp việc một cái gật đầu đồng tình, đúng đó, vui. Người chị thì nhăn mặt ngán ngẩm, nói gần nói xa mà không gạt được vụ bánh trái quê mùa này.
Cũng phải, dẹp cả một nền văn hóa thảo thơm đồng bãi, đâu có dễ…
(Trích Chương 6, Bánh trái mùa xưa, Nguyễn Ngọc Tư)
Thực hiện các yêu cầu:
Trả lời cho các câu 1, 2, 3, 4, 5, 6 dưới đây:
Trong đoạn trích trên tác giả đề cập đến văn hóa ẩm thực của vùng nào?
Đáp án đúng là: B
Căn cứ bài đọc hiểu.
Đó là món ăn của Nam Bộ.
Chọn B.
Trong đoạn trích trên, món mà “cậu Út” không bao giờ quên mang đến nhà anh chị cậu là gì?
Đáp án đúng là: C
Căn cứ bài đọc hiểu.
Món ăn không quên là: món bánh.
Chọn C.
Xác định phó từ có trong câu văn sau: Cậu Út hiền lắm, nói mười hiểu ba.
Đáp án đúng là: C
Căn cứ bài phó từ.
Phó từ: lắm.
Chọn C.
Xác định thành phần trạng ngữ có trong câu văn sau: Từ thế kỉ này sang thế kỉ khác, người nghệ sĩ vẫn đổ mồ hôi để cố hoàn thiện nó.
Đáp án đúng là: D
Căn cứ bài trạng ngữ.
Trạng ngữ: từ thế kỉ này sang thế kỉ khác.
Chọn D.
Công dụng của dấu ba chấm trong câu: Con nhỏ giúp việc, lần đầu tới nhà chủ, nó khoe nó biết làm nhiều loại bánh ngon hết xảy như kẹp cuốn, tai yến, tăng ong… là gì?
Đáp án đúng là: A
Căn cứ bài dấu ba chấm
Công dụng: Biểu thị ý còn nhiều sự vật, hiện tượng chưa liệt kê hết.
Chọn A.
Chủ đề của đoạn trích trên là gì?
Đáp án đúng là: C
Căn cứ bài đọc hiểu, phân tích.
Chủ đề: Đoạn trích thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng của tác giả đối với những món bánh dân dã cũng như đối với nền văn hóa thảo thơm, đồng bãi.
Chọn C.
Hỗ trợ - Hướng dẫn
-
024.7300.7989
-
1800.6947
(Thời gian hỗ trợ từ 7h đến 22h)
Email: lienhe@tuyensinh247.com