Đọc văn bản sau: CHUYỆN ĐỐI ĐÁP CỦA NGƯỜI TIỀU PHU Ở NÚI NA (Nguyên văn: Na sơn tiều đối
Đọc văn bản sau:
CHUYỆN ĐỐI ĐÁP CỦA NGƯỜI TIỀU PHU Ở NÚI NA
(Nguyên văn: Na sơn tiều đối lục)
Đất Thanh Hóa phần nhiều là núi, bát ngát bao la đến mấy nghìn dặm. Trong đó có một ngọn núi cao chót vót, tên gọi là núi Na. Núi có cái động, dài mà hẹp, hiểm trở mà quạnh hiu, bụi trần không bén người không bước tới. Hàng ngày, trong động có người tiều phu gánh củi đi ra, đem đổi lấy cá và rượu, cốt được no say chứ không lấy một đồng tiền nào. Hễ gặp ông già, trẻ con dưới đồng bằng lại nói những chuyện trồng dâu, trồng gai một cách vui vẻ. Ai hỏi họ tên, nhà cửa, tiều phu chỉ cười không trả lời. Mặt trời ngậm núi, lại hủng thỉnh về động. Đương thời cho là người thuộc hạng Thần Môn, Tiếp Dư chứ Thái Hòa trở xuống đều không đủ kể. Sau đến năm Khai Đại nhà Hồ, Hán Thương đi săn, chợt gặp người ấy trên đường, vừa đi vừa hát.
(Lược bài hát)
Hát xong rồi phất áo đi thẳng. Hán Thương đoán chắc đó là một vị ẩn sĩ, bèn sai quan hầu là Trương công đi theo mời lại. Nhưng Trương theo gần đến nơi thì người ấy đã rảo bước vào động, vội gọi cũng không trả lời, chỉ thấy cưỡi mây lách khói, đi trong khoảng cành tùng khóm trúc. Biết đó không phải là người thường, bèn rón bước theo sau, rẽ cỏ lấy đường, đi ước chừng vài dặm. Song đường núi gập ghềnh, càng vào sâu càng khó đi lắm, rồi trong thoắt chốc đã chẳng thấy người đâu cả. Ngẩng lên trông, bóng chiều gác đầu núi, cây cỏ đã bắt đầu lờ mờ, bàng hoàng muốn về, nhưng không kịp. Bỗng nghe tiếng gà gáy trên một khóm trúc, Trương mừng rỡ nghĩ rằng:
- Từ đây đến chỗ có nhà người ở cũng không xa gì.
Chống gậy trèo lên thì thấy một cái am cỏ, hai bên tả hữu trồng mấy cây kim tiền, chen lẫn những cây bích đào hồng hạnh, tất cả đều xanh tốt đáng yêu. Trong am đặt một chiếc giường mây, trên giường để đàn sáo và chiếc gối dựa. Hai bên vách đông tây đều chát keo trắng và đề hai bài ca, một bài là Thích ngủ, một bài là Thích cờ.
(Lược bài thơ)
Bấy giờ người tiều phu đương ngồi ngoài hiên đá, dạy con chim yểng học nói, bên cạnh có mấy đứa nhỏ ngồi đánh cờ. Thấy Trương đến, tiều phu kinh ngạc nói rằng:
- Chỗ này quạnh vắng, đất thẳm rừng sâu, chim núi kêu ran, muông rừng chạy quẩn, sao ông lại lần mò tới đây như vậy, chẳng cũng khó nhọc lắm ư?
Trương nói:
- Tôi là chức quan cung phụng của đương triều. Vì ngài là bậc cao sĩ, nên tôi được vâng mệnh đến đây tuyên triệu. Hiện có loan giá ở ngoài kia, xin ngài ngoảnh lại một chút.
Tiều phu cười mà rằng:
- Ta là kẻ dật dân trốn đời, ông lánh bụi, gửi tính mệnh ở lều tranh quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió rìu trăng; ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách tục; bạn cùng ta là hươu nai tôm cá, quẩn bên ta là tuyết gió trăng hoa; chỉ biết đông kép mà hè đơn, nằm mây mà ngủ khói; múc khe mà uống, bới núi mà ăn; chứ có biết gì đâu ở ngoài là triều đại nào, vua quan nào?
Bèn mời Trương ở lại làm tiệc thết, cơm thổi bằng hạt điêu hồ, canh nấu bằng rau cẩm đái, lại còn có mấy món rau suối khác nữa. Canh khuya chuyện trò, đều là những nghĩa lý đáng nghe cả, nhưng không một câu nào đả động đến việc đương thời.
(Lược một đoạn: Ngày hôm sau Trương ngỏ ý mời tiều phu ra làm quan giúp vua nhưng tiều phu đã bày tỏ quan điểm của mình ghét những kẻ miệng lưỡi bẻo lẻo, đã đắm mình vào trong triều đình, vẩn đục, rối loạn lại còn toan kéo người khác để cùng đắm với mình, Trương về tâu với vua y lời tiều phu nói.)
Hán Thương cả giận, sai đốt cháy núi; núi cháy hết vẫn không thấy gì, chỉ thấy con hạc đen lượn trên không bay múa.
Người tiều phu ấy có lẽ là kẻ sĩ đắc đạo đó chăng?
Lời bình:
Than ôi! Có cái thần để biết việc sau, có cái trí để giấu việc trước, đó là việc của thánh nhân; tiều phu tuy là bậc hiền nhưng đâu đã được dự đến hạng ấy. Tuy nói việc táng bại của nhà Hồ, đúng như là bói cỏ, bói rùa, nhưng chẳng qua là nghiệm với lẽ trời, chứng với lòng người, nói nhiều may ra thì tin, đó là cái lẽ đời như vậy. Kẻ làm vua chúa nên lấy sự chính lòng mình để làm cái gốc chính triều đình, chính trăm quan, chính muôn dân, đừng để cho kẻ xử sĩ phải bàn ra nói vào là tốt hơn cả.
(Nguyễn Dữ, Truyền kì mạn lục, bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1962)
Trả lời các câu hỏi sau:
Trả lời cho các câu 1, 2, 3, 4, 5 dưới đây:
Căn cứ kiến thức về đặc trưng thể loại truyện truyền kì.
Đọc, tìm ý
Vận dụng kiến thức đã học về hiệu quả của việc sử dụng các chi tiết hoang đường, kì ảo.
Phân tích, kết luận.
Phân tích, kết luận.
Quảng cáo
>> 2K8 Chú ý! Lộ Trình Sun 2026 - 3IN1 - 1 lộ trình ôn 3 kì thi (Luyện thi 26+ TN THPT, 90+ ĐGNL HN, 900+ ĐGNL HCM, 70+ ĐGTD - Click xem ngay) tại Tuyensinh247.com.Đầy đủ theo 3 đầu sách, Thầy Cô giáo giỏi, luyện thi theo 3 giai đoạn: Nền tảng lớp 12, Luyện thi chuyên sâu, Luyện đề đủ dạng đáp ứng mọi kì thi.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Hỗ trợ - Hướng dẫn
-
024.7300.7989
-
1800.6947
(Thời gian hỗ trợ từ 7h đến 22h)
Email: lienhe@tuyensinh247.com












